Phật học

7 tuần kiết già dưới gốc cây Bồ Đề của Đức Phật sau khi thành đạo

Suốt bảy tuần này, Đức Phật trú trong sự an lạc của quả giải thoát mà không dùng đến chút vật thực nào cả, không tắm, không rửa mặt và không rửa tay chân.

bài học cuộc sống, lời phật dạy, 7 tuần kiết già dưới gốc cây bồ đề của đức phật sau khi thành đạo

TUẦN THỨ NHẤT: NGỰ TẠI BỒ ĐOÀN CHIẾN THẮNG

7 ngày đầu tiên sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi không lay động dưới tàng cây của cội Bồ-đề để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimuttisukha). Trong đêm cuối tuần, vào lúc đầu hôm, Ngài xuất thiền và suy niệm về Thập nhị nhân duyên (Paṭiccasamuppāda) theo chiều xuôi (anuloma) như sau:

Iti imasmiṃ sati idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati – Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh.

Avijjā paccayā saṅkhārā: Do duyên vô minh, hành sinh khởi.

Saṅkhāra paccayā viññānaṃ: Do duyên hành, thức sinh khởi.

Viññāṇa paccayā nāmarūpaṃ: Do duyên thức, danh – sắc sinh khởi.

Nāmarūpa paccayā saḷāyatanaṃ: Do duyên danh – sắc, sáu xứ sinh khởi.

Saḷāyatana paccayā phasso: Do duyên sáu xứ, xúc sinh khởi.

Phassa paccayā vedanā: Do duyên xúc, thọ sinh khởi.

Vedanā paccayā taṅhā: Do duyên thọ, ái sinh khởi.

Taṅhā paccayā upādāna: Do duyên ái, thủ sinh khởi.

Upādāna paccayā bhavo: Do duyên thủ, hữu sinh khởi.

Bhava paccayā jāti: Do duyên hữu, nên có sinh.

Jāti paccayā jarāmaraṇaṃ sokaparideva dukkha domanassasupāyāsā sambhavanti: Do duyên sinh nên già, chết, buồn rầu, khóc than, khổ, phiền muộn, đau đớn cũng phát sinh. Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đã thốt lên bài kệ cảm hứng:

Yadā have pātubhavanti dhammā, Ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; Athassa kaṅkhā vapayanti sabbā, Yato pajānāti sahetudhammaṃ. Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền thì tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó nhận biết rằng (mọi) việc là có nguyên nhân.

Khoảng canh giữa đêm đó, đức Phật suy luận theo chiều nghịch (paṭiloma) như sau:

Iti imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati – Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu.

Avijjhāya tve’va asesavirāga nirodhā saṅkhāra nirodho: Vô minh diệt, hành cũng diệt.

Saṅkhāra nirodhā viññāṇa nirodho: Do hành diệt, thức diệt.Viññāṇa nirodhā nāmarūpa nirodho: Do thức diệt, danh-sắc diệt.

Nāmarūpa nirodhā saḷāyatana nirodho: Do danh -sắc diệt, sáu xứ diệt.

Saḷāyatana nirodhā phassa nirodho: Do sáu xứ diệt, xúc diệt.

Phassa nirodhā vedanā nirodho: Do xúc diệt, thọ diệt.

Vedanā nirodhā taṅhā nirodho: Do thọ diệt, ái diệt.

Taṅhā nirodhā upādāna nirodho: Do ái diệt, thủ diệt.

Upādāna nirodhā bhava nirodho: Do thủ diệt, hữu diệt.

Bhava nirodhā jāti nirodho: Do hữu diệt, sinh diệt.

Jāti nirodhā jarāmaranaṃ soka parideva dukkha somanassupāyāsā nirujjhanti: Do sinh diệt nên già, chết, buồn rầu, khóc than, sầu muộn, đau đớn cũng diệt.

Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này. Khi đức Thế Tôn thấy rõ các pháp tùy thuộc vào nhau diệt tắt một cách rõ ràng, Ngài hoan hỷ thốt lên cảm hứng ngữ rằng:

Yadā have pātubhavanti dhammā,Ātāpino jhāyato brāhmaṇassa;Athassa kaṅkhā vapayanti sabbā,Yato khayaṃ paccayānaṃ avedī. Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền thì tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó đã hiểu được sự tiêu hoại của các duyên.

Đến canh cuối của đêm, Thế Tôn đã suy niệm theo chiều chiều xuôi và ngược (anulomapaṭiloma) như sau:

Avijjā paccayā saṅkhārā: Do duyên vô minh, hành sinh khởi… Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này.

Avijjhāya tve’va asesavirāga nirodhā saṅkhāra nirodho: Vô minh diệt, hành cũng diệt… Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này.

Rồi Thế Tôn nói bài kệ cảm hứng sau đây:

Yadā have pātubhavanti dhammā; Ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; Vidhūpayaṃ tiṭṭhati mārasenaṃ; Sūriyova obhāsayamantalikkhaṃ. Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền, trong khi đánh tan binh đội của ma vương, (vị ấy) hiển hiện tựa như ánh mặt trời đang rọi sáng không gian.

Điểm dưới cội Bồ-đề nơi thành đạo và tọa thiền trong trong tuần lễ đầu tiên sau khi giác ngộ được gọi là Bodhimaṇḍa; về sau, tại nơi này cũng được xây dựng một Tịnh-xá có tên là Bodhimaṇḍavihāra.

Tuần lễ đầu tiên, đức Thế Tôn ngồi trên bồ đoàn suốt bảy ngày để chiêm niệm về pháp thập nhị nhân duyên nên tuần lễ này còn được gọi là Tuần lễ bồ đoàn chiến thắng – Pallaṅkasattāha.

TUẦN THỨ HAI: TRI ÂN CỘI BỒ-ĐỀ

Đức Phật trải qua tuần lễ thứ 2 một cách bình thản, Ngài đứng cách cây Bồ-đề khoảng 100m về hướng bắc của cội Bồ-đề, chăm-chú nhìn cây Bồ-đề trọn một tuần không nháy mắt, hồi tưởng lại cuộc trường kỳ chiến đấu cam go, gian khổ, với tự thân, tự tâm, trong vô lượng kiếp, cho đến ngày nay thành đạo dưới cội Bồ-đề, để rút tỉa kinh nghiệm hầu tìm ra một con đường giải thoát cho chúng sanh khỏi luân hồi đau khổ.

Hiện nay nơi đây còn có tháp kỷ niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animisacetiya – Bảo tháp không nháy mắt. Và tuần lễ thứ hai này được gọi là tuần lễ không nháy mắt – Animisasattāha.

TUẦN THỨ BA: CON ĐƯỜNG KINH HÀNH CHÂU BÁU

Đến tuần lễ thứ ba, từ ngày 30 tháng tư đến ngày 6 tháng năm, chư Thiên và Phạm thiên hóa ra con đường kinh hành bằng 7 loại ngọc báu chạy từ hướng Đông sang hướng Tây ở khoảng giữa của Bảo tọa chiến thắng (aparajitapallaṅka) và nơi Đức Phật nhìn không chớp mắt để cúng dường đến Thế Tôn. Ngài đi kinh hành trên con đường châu báu này, rồi an trú tâm trong quả định (phalasampatti).

Nơi đức Phật đi kinh hành, sau này được thành lập một bảo tháp có tên là Ratanacaṅkamacetiya và tuần lễ thứ ba này được gọi là Tuần lễ kinh hành – Caṅkamasattāha.

TUẦN THỨ TƯ: BẢO ĐIỆN CHÂU BÁU

Đức Thế Tôn đi đến hướng Tây bắc cội Bồ-đề, chư Phạm thiên và chư Thiên cúng dường đến Thế Tôn tòa bảo điện bằng bảy loại ngọc báu. Ngài ngự trong bảo điện và suốt tuần lễ này để quán xét về Vi diệu pháp – Abhidhamma.

Khi Ngài bắt đầu quán, hào quang sáu màu của phát ra sáu màu rực rỡ nhu là: xanh dương (nīla), vàng (pīta), đỏ (lohita), trắng (odata), cam (mañjittha) và màu chói sáng (pabhassarā).

Về sau nơi Đức Phật ngồi quán xét Thắng Pháp, được xây dựng ngôi tháp châu báu – Ratanacetiya. Và tuần lễ này được gọi là Tuần lễ bảo điện châu báu – Ratanagharasattāha.

Từ hào quang sáu màu này, một Đại tá Hải quân người Mỹ tên Henry Steel Olcott nảy ra sáng kiến tạo ra lá cờ Phật giáo. Ông thảo luận cùng ngài Đại trưởng lão Sumaṅgala của xứ Tích Lan để phác họa ra lá cờ Phật giáo gồm sáu màu. Lá cờ này được Tích Lan công nhận và được treo tại các tự viện vào ngày lễ Tam hợp (Vesak) từ năm 1889.

Năm 1950, tại Đại hội Phật giáo Thế giới lần đầu tiên tổ chức ở Colombo thủ đô Tích Lan, toàn hội nghị đã thống nhất chọn lá cờ ấy làm lá cờ Phật giáo toàn thế giới.

TUẦN THỨ NĂM: CỘI CÂY NIGRODHA – MA NỮ QUẤY RỐI

Khi Đức Phật đi đến hướng Đông của cội bồ-đề, tọa thiền dưới bóng cây si của những người chăn dê – Ajapālanigrodha để thọ hưởng hạnh phúc vô vi, giải thoát. Vào ngày cuối, có một người Bà-la-môn ngã mạn tên Huhuṅka đi ngang, dừng lại hỏi:

– Thưa ngài Gotama, cho đến như thế nào là Bà-la-môn, và những pháp nào tác thành Bà-la-môn?

Hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Yo brāhmaṇo bāhitapāpadhammo, Nihuṃhuṅko nikkasāvo yatatto; Vedantagū vūsitabrahmacariyo, Dhammena so brahmavādaṃ vadeyya; Yassussadā natthi kuhiñci loke.

Vị Bà-la-môn nào có ác pháp đã được ngăn trừ, là vị không làm tiếng ‘hum hum,’ đã thoát khỏi điều ô nhiễm, có bản thân đã được thu thúc, là vị thông thạo các bộ Vệ Đà, sống theo đời Phạm hạnh, vị ấy có thể thuyết giảng một cách đúng đắn lời nói của Phạm Thiên, vị ấy không có khuyết điểm về bất cứ điều gì ở trên thế gian.

Và cũng trong tuần lễ thứ năm này có một sự kiện khác đã xảy ra với Thế Tôn đó là ác ma và ba người con gái đã đến phá rối sự an tịnh của Ngài nơi cội cây Ajapālanigrodha này.

Ác ma đã theo sát Đức Phật suốt 7 năm để chờ có dịp tìm thấy lỗi lầm nơi Ngài, nhưng không thể có được cơ hội như vậy dầu nhỏ nhặt nhất. Do đó, y đi đến Đức Phật khi Ngài đang ngồi dưới gốc Ajapālanigrodha và nói lên câu kệ sau đây:

Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi, Vittaṃ nu jīno uda patthayāno; Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci, Kasmā janena na karosi sakkhiṃ; Sakkhī na sampajjati kenaci te.

Với tâm tư sầu muộn, Ngài Thiền tư trong rừng, Vì tài sản hao mòn, Hay vì thèm tài sản? Có thể tại xóm làng, Ngài đã gây tội phạm. Sao Ngài không làm thân, Với bà con xóm giềng? Sao Ngài không có thể, Làm bạn với một ai?

Thế Tôn:

Sokassa mūlaṃ palikhāya sabbaṃ, Anāgu jhāyāmi asocamāno; Chetvāna sabbaṃ bhavalobhajappaṃ, Anāsavo jhāyāmi pamattabandhū.

Mọi sầu căn nhổ sạch, Không tội phạm, Ta Thiền, Không sầu muộn, Ta Thiền. Mọi hữu ái, đoạn tận, Vô lậu, Ta Thiền định, Này Bà con phóng dật!

Ác ma:

Yaṃ vadanti mama yidanti, ye vadanti mamanti ca; Ettha ce te mano atthi, na me samaṇa mokkhasī. Sự vật được Ngài nói: “Cái này là của tôi”.

Và những người đã nói: “Cái này chính là tôi”. Nếu ở đây móng ý, Ðối với sự vật ấy, Như vậy, này Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta.

Thế Tôn:

Yaṃ vadanti na taṃ mayhaṃ, ye vadanti na te ahaṃ; Evaṃ pāpima jānāhi, na me maggampi dakkhasī.

Sự vật được ông nói: “Cái này không của tôi” Và những người đã nói: “Họ không phải là tôi”. Hãy hiểu biết như vậy, Này kẻ Ác ma kia! Cho đến Ông không thấy, Con đường của Ta đi.

Ác ma:

Sace maggaṃ anubuddhaṃ, khemaṃ amatagāminaṃ; Apehi gaccha tvameveko, kimaññamanusāsasī.

Nếu Ngài chứng ngộ được, Ðường an toàn bất tử, Ngài hãy đi một mình. Sao lại dạy người khác?

Thế Tôn:

Amaccudheyyaṃ pucchanti, ye janā pāragāmino; Tesāhaṃ puṭṭho akkhāmi, yaṃ saccaṃ taṃ nirūpadhiṃ.

Người đi đến bờ kia, Họ hỏi nước bất tử, Ðược hỏi, Ta trả lời, Cảnh giới vô dư y.

Khi nghe vậy, Ma-vương đã hết phương quanh co như con cua bị bọn trẻ trong làng đập gãy càng, bèn nói lên hai câu kệ chấp nhận thất bại:

– Bạch Thế Tôn, ví như một hồ nước không xa làng hay thị trấn. Tại đấy có một con cua. Rồi bạch Thế Tôn, nhiều người con trai hay người con gái, từ làng ấy đi ra, đi đến hồ nước ấy. Sau khi đến, họ kéo con cua ấy lên khỏi nước và đặt nó trên đất liền. Bạch Thế Tôn, khi nào con cua ấy thò ra cái càng nào, những người con trai hay những người con gái ấy, lấy gậy hay lấy miểng sành chặt đứt, bẻ gãy hay đập nát cái càng ấy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy, với mọi càng bị chặt đứt, bẻ gãy, đập nát, không thể bò xuống hồ nước ấy nữa. Ví như lúc trước có những lộn xộn, mâu thuẫn, xuyên tạc gì đã được Thế Tôn chặt đứt, bẻ gẫy, đập nát. Và nay, bạch Thế Tôn, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, con không thể đến gần Thế Tôn được.

Rồi ác ma, trước mặt Thế Tôn, trong nỗi niềm thất vọng, nói lên bài kệ này:

Medavaṇṇañca pāsāṇaṃ, vāyaso anupariyagā; Apettha muduṃ vindema, api assādanā siyā. Aladdhā tattha assādaṃ, vāyasetto apakkame; Kākova selamāsajja, nibbijjāpema Gotama.

Như quạ liệng hư không, Thấy đá như miếng mỡ, Tưởng rằng sẽ tìm được, Miếng gì mềm và ngon. Không tìm được gì ngon, Liền từ đó bay đi, Như quạ mổ hòn đá, Thất vọng ta bỏ đi, Giã từ Gotama.

Sau đó, ác ma ngồi trầm ngâm suy nghĩ như vầy: “Dầu ta đã theo sát Đức Phật để tìm lỗi vị ấy, nhưng ta không thể tìm thấy nơi Ngài ấy một lỗi nhỏ nào đáng để chê trách. Giờ đây, Ngài đã thoát khỏi quyền kiểm soát của ta trong ba cõi”. Như vậy, ác ma đã ngồi ủ rủ và buồn bã trên con đường chính, cách không xa Đức Phật và gạch xuống đất mười sáu vạch sau khi xuy xét 16 vấn đề còn thua Đức Phật như là:

Ta chưa thực hành viên mãn Bố thí Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Trì giới Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Trí tuệ Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Tinh tấn Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Nhẫn nại Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Chân thật Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Chí nguyện Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Từ Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Ta chưa thực hành viên mãn Xả Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta.T a chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được Căn thượng hạ trí (Indriyaparopariyattiñāṇa). Ta chưa thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được ý lạc Tuỳ miên trí (āsayanusayañāṇa). Ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được Đại bi định trí (mahākarunasamāpattiñāṇa). Ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được Song thông trí (Yamakapāṭihāriyañāṇa). Ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được Vô chướng trí (anāvaraṇañāṇa). Ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta để có được Nhất thiết trí (sabbaññutañāṇa).

Lúc bấy giờ, ba người con gái của ma vương (māradhītu): Taṅhā, Arati và Ragā thấy cha của mình đang ngồi ủ rủ, gạch những đường kẽ trên mặt đất, chúng vội vã đi đến và hỏi rằng:

Kenāsi dummano tāta, purisaṃ kaṃ nu socasi; Mayaṃ taṃ rāgapāsena, āraññamiva kuñjaraṃ; Bandhitvā ānayissāma, vasago te bhavissati.

Cha thân yêu, sao cha, Lại thất vọng như vậy? Vì ai, vì người nào, Khiến cha phải sầu muộn? Chúng con với ái dục, Sử dụng như bẫy mồi, Sẽ buộc chặt họ lại, Như buộc chặt voi rừng, Và dẫn họ đến cha, Khiến họ quy phục cha.

Ác ma:

Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo; Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusaṃ.

Bậc La-hán, Thiện Thệ, Bậc Chánh Giác ở đời, Không dễ dùng ái dục, Khéo nhiếp phục vị ấy. Vị ấy đã vượt qua, Lãnh vực của Ác ma, Do vậy, ta sầu não, Buồn phiền đến cực độ.

Biết được như vậy, ba nàng ma nữ đi đến trước mặt đức Phật và nói lời dụ dỗ với Ngài rằng:

– Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài.

Tuy nhiên, Đức Phật không để tâm đến chúng. Mắt vẫn khép lại và đang nhập thiền quả, thọ hưởng sự an lạc của Níp-bàn.

Rồi ba người con gái của Ma vương lại bàn bạc với nhau như vầy: “Sở thích của con người cao thấp khác nhau. Vậy chúng ta biến hình thành một trăm thiếu nữ khác nhau”.

Bởi vậy, ba ma nữ hoá làm các nữ nhân đủ loại tuổi tác và trổ ra nhiều trò để chiêu dụ đức Phật. Bọn họ hoá ra một trăm nữ nhân: một số mang tướng mạo những cô gái trẻ, một số mang tướng mạo những cô gái chưa sanh con, một số mang tướng mạo những thiếu phụ một con, một số mang tướng mạo những thiếu phụ hai con, một số mang tướng mạo những công nương ở tuổi trung niên, và một số mang tướng mạo của những mệnh phụ phu nhân lớn tuổi. Tất cả đều có vẻ đẹp riêng của từng lứa tuổi.

Rồi chúng đi đến Đức Phật và nói lời mê hoặc như trước. Cũng như những trường hợp trước, đức Phật không để ý đến chúng mà vẫn ngồi nhắm mắt, nhập thiền quả định và thọ hưởng sự an lạc của sự giải thoát. Sau đó, đức Phật nói rằng:

– Các ngươi hãy đi đi, các ngươi tìm được lợi ích gì mà cố gắng làm như thế chứ. Việc làm của các ngươi chỉ có thể quyến rũ được người còn ái dục thôi. Như Lai đã tận diệt mọi tham ái phiền não rồi. Các ngươi mong Như Lai rơi vào quyền lực của các ngươi do nhân nào được chứ.

Rồi Ngài thuyết lên 2 kệ ngôn rằng:

Yassa jitaṃ nāvajīyati, Jitaṃ yassa no yāti koci loke. Taṃ buddhamanantagocaraṃ, Apadaṃ kena padena nessatha.

Vị chiến thắng không bại, Vị bước đi trên đời,Không dấu tích chiến thắng, Phật giới rộng mênh mông, Ai dùng chân theo dõi, Bậc không để dấu tích?

Yassa jālinī visattikā, Taṇhā natthi kuhiñci netave;Taṃ buddhamanantagocaraṃ, Apadaṃ kena padena nessatha.”

Ai giải tỏa lưới tham, Ái phược hết dắt dẫn, Phật giới rộng mênh mông, Ai dùng chân theo dõi, Bậc không để dấu tích?

Ba nàng ma nữ quấy rối Thế Tôn thất bại và trở về tìm ma vương, thấy các con của mình trong tình trạng như thế, ác ma nói lên bài kệ sau:

Bālā kumudanāḷehi, pabbataṃ abhimatthatha;Giriṃ nakhena khanatha, ayo dantehi khādatha. Selaṃva sirasūhacca, pātāle gādhamesatha; Khāṇuṃva urasāsajja, nibbijjāpetha gotama. Daddallamānā āgañchuṃ, taṇhā ca aratī ragā; Tā tattha panudī satthā, tūlaṃ bhaṭṭhaṃva māluto.

Các ngươi thật kẻ ngu, Lấy cành sen phá đá, Lấy móng tay đào núi, Lấy răng nhai sắt thép. Các ngươi thật giống người, Lấy đầu húc đá tảng, Cố gắng tìm chân đứng, Trong vực thẳm thâm sâu. Các ngươi thật giống người, Lấy ngực đâm lao nhọn.

Thất vọng, các ông đến, Giã từ Gotama.Trong áo xiêm lòe loẹt, Con gái ma, chúng đến,Khát ái và bất lạc, Cùng với nàng tham dục. Bậc Ðạo Sư quét sạch, Các con gái ác ma, Như thần gió quét sạch, Các cây lá rơi rụng.

Như vậy, trong tuần lễ thứ năm này, Thế Tôn đã ngự tại cội cây Ajapālanigrodha suốt bảy ngày, và chính vì thế tuần lễ thứ năm này còn được gọi là Tuần lễ tại cây Ajapālanigrodha – Ajapālasattāha

TUẦN THỨ SÁU: BỜ HỒ MUCALINDA

Sau bảy ngày thiền tịnh ở dưới cội cây Ajapālanigrodha, Thế Tôn xuất khỏi thiền tịnh. Ngài đi đến cội cây Mucalinda ở cạnh bờ hồ nằm về hướng Đông cội Bồ-đề. Thế Tôn kiết già thọ hưởng sự an lạc của đạo quả giải thoát.

Lúc bấy giờ, một cơn giông tố lớn trái mùa khởi lên và trong bảy ngày, trời mưa gió lạnh, bầu trời u ám. Rồi rắn chúa Mucalinda ra khỏi chỗ ở của mình, với thân cuốn vòng quanh bảy vòng thân của Thế Tôn, và đứng thẳng, vươn cao các mang lớn trên đầu Thế Tôn với ý nghĩ: “Mong Thế Tôn khỏi lạnh! Mong Thế Tôn khỏi nóng! Mong Thế Tôn khỏi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng, các loài bò sát”.

Như vậy, đức Phật đã trú ngụ bên trong 7 vòng thân của long vương Mucalinda và trải qua suốt bảy ngày thọ hưởng sự an lạc của giải thoát tựa như Ngài đang ở trong một hương phòng không quá hẹp. Khi Long vương nhìn lên trời cao và thấy không còn những đám mây mưa, vị ấy bèn bỏ thân Long vương và hoá ra một chàng trai trẻ tuấn tú, đứng chấp tay trước đức Phật.

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

Sukho viveko tuṭṭhassa, sutadhammassa passato; Abyāpajjaṃ sukhaṃ loke, pāṇabhūtesu saṃyamo. Sukhā virāgatā loke, kāmānaṃ samatikkamo;Asmimānassa yo vinayo, etaṃ ve paramaṃ sukhaṃ.

Viễn ly là an lạc, Với người biết tri túc, Với người có nghe pháp, Với người có chánh kiến. Không sân là an lạc, Những ai ở trên đời, Ðối hữu tình chúng sanh, Biết tự chế, ngăn ngừa. Ly tham là an lạc, Vượt các dục ở đời, Ai nhiếp phục ngã mạn, Ðây an lạc tối thượng.

Suốt tuần thứ sáu, Thế Tôn an tịnh dưới cội cây Mucalinda nên Tuần lễ này gọi là Tuần lễ Mucalinda – Mucalindasattāha.

TUẦN THỨ BẢY: CỘI CÂY RĀJĀYATANA

Sau khi trải qua bảy ngày thọ hưởng sự an lạc của đạo quả A-la-hán dưới cội cây Mucalinda và đến tuần lễ thứ bảy, Đức Phật rời khỏi chỗ đó và đi đến cội cây Rājāyatana ở về hướng nam của đại thọ Bồ-đề và ngồi dưới cội cây ấy thọ hưởng sự an lạc của đạo quả A-la-hán trong bảy ngày.

Suốt 49 ngày này, đức Phật không làm công việc gì khác như súc miệng, rửa mặt, đại tiểu tiện, tắm, độ thực, uống nước và nằm. Ngài trải qua thời gian ấy chỉ thọ hưởng sự an lạc của thiền (jhāna) và quả.

Khi 49 ngày đã kết thúc, trong khi đức Phật đang trú ngụ ở Rājāyatana, vua trời Sakka đến và dâng đến Ngài trái thuốc Myrobalan vì vị ấy biết Đức Phật muốn rửa mặt và vệ sinh thân thể. Đức Phật nhận lấy trái Myrobalan.

Khi Ngài vừa độ xong trái Myrobalan thì Ngài đi đại tiện và tiểu tiện. Sau đó Sakka dâng cây chà răng lấy từ cõi rồng, và nước từ hồ Anotatta để rửa mặt. Đức Phật dùng cây chà răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta và vẫn ngồi dưới cội cây Rājāyatana.

Tuần lễ thứ bảy này được gọi là Tuần lễ Rājāyatana – Rājāyatanasattāha.

TH!

BÀI VIẾT HAY ĐỪNG BỎ LỠ

Top Car News Car News