Phật học

Quán Thế Âm Bồ Tát là ai? Vì sao phải khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát?

Bồ Tát Quán Thế Âm là đại diện của lòng đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sinh theo giáo lý nhà Phật. Vì sao phải khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát?

lời phật dạy, phật bà quan âm, thiên thủ quan âm bồ tát, quán thế âm bồ tát là ai? vì sao phải khấn cầu quán thế âm bồ tát?

1. Quán Thế Âm Bồ Tát là ai?

Các vị Bồ Tát là những bậc được kết tinh bởi đức hạnh cao quý tuyệt vời của đức Phật và được thánh hóa để trở thành nhu cầu của quần chúng. Nếu như con người ở một thời đại nào đó khao khát tri thức, trí tuệ thì tính chất trí tuệ được thánh hóa và đặt lên hàng đầu với hình tượng biểu trưng là Bồ Tát Văn Thù. Ngược lại, khi nhân loại đang cần tình thương và sự che chở bảo hộ, cần một bàn tay hiền từ, tươi mát tưới tẩm, cảm thông và xoa dịu nỗi đau thương tang tóc trong cuộc sống thì hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát lại được thánh hóa để làm chỗ nương tựa cho tâm hồn của họ.

Có thể nói, hai vị Bồ tát kể trên cũng là biểu tượng đặc trưng cho chất liệu “từ bi và trí tuệ”, một triết lý trác tuyệt tiềm ẩn xuyên suốt toàn bộ hệ thống kinh điển của Phật giáo. Đặc biệt, hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm, biểu tượng của tình thương bao la vô bờ bến, là đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền, Ngài luôn được người đời kính ngưỡng bởi hạnh nguyện từ bi, ban vui và cứu khổ không mệt mỏi, không giới hạn và luôn được đức Phật nhắc đến trong các kinh điển Đại Thừa.

Quán Thế Âm, tiếng Phạn gọi là Avalokitévara, Nghĩa là vị Bồ Tát quán sát âm thanh đau khổ của thế gian kêu cầu mà cứu độ một cách tự tại. Do Ngài quán sát âm thanh một cách tự tại mà chứng được bản thể chân thường của vũ trụ. Nơi nào, lúc nào trong vũ trụ có tiếng chúng sinh đau khổ, kêu cầu thì Ngài hiện thân cứu độ rất tự tại, cho nên Ngài cũng có tên là Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại…

Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ đề Tát Đỏa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là giác hữu tình hay hữu tình đã giác ngộ, trở lại giác ngộ hữu tình khác. Ví như có nhiều người đang ngủ mê, có một người tỉnh thức, người ấy đánh thức những người còn lại đang ngủ mê. Người tỉnh thức đó gọi là bậc giác ngộ như chư Phật, Bồ Tát, kẻ ngủ mê là chúng sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm được ví như Người đánh thức những người đang ngủ mê trong ngôi nhà đó.

Vì Ngài đã giác ngộ, biết rõ chân lý của vũ trụ, chứng được phép “nhĩ căn viên thông”, nghe thông suốt hết thảy âm thanh của vũ trụ, như người đã thức dậy rồi trong ngôi nhà “vũ trụ” kia, nghe biết hết thảy chân tướng các sự vật, động tịnh trong ngoài. Cho nên chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu Ngài liền được Ngài “tầm thanh cứu khổ”, giải thoát khỏi tai ách, hoạn nạn. Ngài đã chứng được bản thể của âm thanh vốn dĩ là không, vô thường, vô ngã nên Ngài thường được tôn xưng là Quán Thế Âm.

Xét về cuộc đời tu hành, thệ nguyện cũng như công đức hóa độ của Ngài, các kinh điển thuờng đề cập như: kinh Bi Hoa, Diệu Pháp Liên Hoa kinh – Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, Vô lượng Thọ kinh, Đại Bát Nhã ba la mật đa kinh, Ngũ Bách Danh kinh, Đại Phương Quảng Như Lai tạng kinh… Đặc biệt kinh Bi Hoa nói rất rõ về cuộc đời tu tập của vị Bồ Tát này như sau:

“Về thuở quá khứ lâu xa về trước, Đức Quán Thế Âm là một vị thái tử tên là Bất Huyền, con của vua Vô Tránh Niệm, thời ấy có Đức Phật ra đời tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm hết lòng sùng bái đạo Phật. Vua liền sắm đủ lễ vật quý báu dâng cúng Phật và chư Tăng trong ba tháng hạ, vua cũng khuyến khích các quan văn, vương tử, vương tôn, triều đình quyến thuộc theo vua cúng dường. Thái tử Bất Huyền vâng lệnh vua cha, cũng dâng cúng đủ các trân cam mỹ vị, hết lòng thành kính Đức Phật và chúng Tăng trong ba tháng như vậy.

Lúc ấy, có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng, khuyên thái tử Bất Huyền nên lập nguyện nhờ công đức cúng dường này mà cầu quả báu Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả ở cõi trời, cõi người này, vì quả báu phước cõi ấy là phước báu hữu hạn, dù chúng ta có lên trời rồi, đến khi hết phước cũng phải sa đọa. Sao bằng đem công đức cúng dường này hướng về quả báu vô thượng bồ đề mới là phước báu chân thật vĩnh hằng.

Nghe đại thần khuyên như vậy, Thái tử liền đến trước Phật Bảo Tạng phát đại thệ nguyện: “nguyện xin nhờ công đức cúng dường này cầu quả vô thượng bồ đề. Con nguyện xin trong lúc tu đạo tự lợi, lợi tha, nếu có chúng sinh nào lâm vào tai nạn, không thể tự cứu chữa được, không nơi nương nhờ, hễ niệm đến danh hệu con, con liền đủ sức thần thông đến cứu độ ngay. Nếu lời nguyện ấy không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát đại thệ nguyện tu đạo Bồ Tát cho đến cùng tận đời vị lai, trãi qua vô số kiếp, khi phụ vương con (vua Vô Tránh Niệm) thành Phật hiệu A Di Đà ở thế giới Cực Lạc thì con sẽ làm thị giả hầu hạ Ngài cho đến khi Chánh Pháp Ngài tận diệt con mới chứng quả Bồ đề. Con nguyện xin Đức Thế Tôn và mười phương chư Phật thụ ký cho con như vậy”.

Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho thái tử và nói rằng: “Do quán sát chúng sinh trong vô số thế giới đều vì tội nghiệp mà phải chịu quả báu đau khổ nên ngươi phát bi tâm, ngươi lại nguyện quan sát nghe được tiêng kêu cầu đau khổ của thế gian để đến cứu độ. Nay ta thọ ký cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm. Ngươi sẽ giáo hoá cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi khổ não, trong khi tu đạo, ngươi phải làm mọi Phật sự để lợi ích chúng sinh”.

Do đó, sau khi Phật A Di Đà nhập diệt rồi, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu, càng thêm tốt đẹp hơn trước nữa. Khi ấy, đang lúc ban đêm, trong khoảnh khắc, tất cả mọi thứ trang nghiêm đều hiện ra giữa không trung, tức thì ngươi thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp. Sau khi ngươi diệt độ rồi, chánh pháp sẽ còn lưu truyền lại sáu mươi ba ức kiếp nữa”.

Thái tử nghe Phật thọ ký rồi, lòng vô cùng hoan hỷ và bạch rằng: “như lời nguyện của con được hoàn toàn viên mãn thì đối với con còn hạnh phúc nào bằng. Nay con xin nguyện mười phương chư Phật cũng thọ ký cho con như thế, làm cho tất cả thế giới đều rung chuyển như tiếng âm nhạc, ai nghe cũng được giải thoát”. Thái tử bạch rồi, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.

Bấy giờ, các thế giới tự nhiên rung chuyển, phát ra tiếng hòa nhã như âm nhạc, ai nghe cũng thân tâm thanh tịnh, dục vọng không còn. Tiếp đó là các Đức Phật trong mười phương thế giới cũng đồng thanh thọ ký cho Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Trong thời kiếp Thiên Trú, ở thế giới Tân Đề Lam có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời, thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm phát tâm cúng Phật và chúng Tăng ba tháng. Nhờ công đức ấy, trãi qua vô số kiếp về sau, thái tử sẽ thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai” ở thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu.

Nghe chư Phật thọ ký xong, thái tử hoan hỷ vô cùng. Từ đó, trãi qua vô số kiếp về sau, Ngài tinh tấn tu đạo Bồ Tát, cứu độ tất cả chúng sinh, không bao giờ quên đại bi tâm của Ngài.

Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng và kinh Đại Phương Quảng Như Lai nói rằng: Ngài cùng Bồ Tát Đại Thế Chí vì lòng từ bi, thệ nguyện dấn thân vào con đường phụng sự, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh, không chịu vào cảnh giới tối thượng của chư Phật.

Kinh Pháp Hoa, một bộ kinh rất quen thuộc với Phật tử thuộc truyền thống Phật giáo Đại Thừa ghi rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hiện thành thân Phật, thân Bích Chi Phật, thân Đại Tự Tại thiên, thân tiểu vương, thân người nam, thân người nữ … cho đến thân dạ xoa, la sát, phi nhân .v.v… Kinh Ngũ Bách Danh còn đề cập đến 500 loại hóa thân của Ngài để tùy duyên ứng hiện hóa độ thuyết pháp.

lời phật dạy, phật bà quan âm, thiên thủ quan âm bồ tát, quán thế âm bồ tát là ai? vì sao phải khấn cầu quán thế âm bồ tát?

2. Vì sao phải khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát?

Hình ảnh Phật Quán Thế Âm luôn hiền từ, nhân hậu nhắc nhở con người luôn biết sống hướng thiện và từ bi. Ở Phật Quán Âm, ta luôn thấy hiện lên gương mặt bình thản, an nhiên, không bị những muộn phiền của cuộc sống làm âu lo.

Dân gian luôn có câu: “Quán Âm hộ mệnh”, nhiều người nghĩ đến việc khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát khi gặp khó khăn trong cuộc sống.

Việc mọi người cúi đầu khấn cầu trước Quán Thế Âm Bồ Tát chính là mong muốn được Ngài ban cho sự an nhiên, tự tại, tai qua nạn khỏi, mạnh khỏe, gia đình hạnh phúc ấm no.

Đó là lý do mỗi khi chúng sinh gặp nạn thường niệm danh hiệu của Ngài là “Quán Thế Âm Bồ Tát” để được cứu độ và giải thoát khỏi khốn cảnh.

Thế nhưng không phải cứ đứng trước Quán Thế Âm nói hết ra những nguyện vọng của bản thân là sẽ được Ngài chứng giám và phù hộ độ trì thành sự thật.

Nếu chúng ta thực sự muốn giải trừ nghiệp chướng, được phước báo, thì chỉ vái lạy Bồ Tát thôi chưa đủ, bản thân chúng ta tốt nhất phải tuân theo những nguyên tắc khấn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm dưới đây, có như vậy chúng ta mới có thể nhận được sự gia trì của Ngài.

Nguyên tắc thứ 1: Những gì bạn CẦU XIN phải phù hợp với nhân quả

Hầu hết mọi người đi chùa lễ Phật Bà Quán Âm Bồ Tát, đều là do có việc cầu xin Bồ Tát. Chúng ta có thể cầu Bồ Tát, nhưng không được cầu những điều trái với Luật nhân quả. Đây chính là nguyên tắc đầu tiên bạn cần ghi nhớ khi khấn niệm trước Quán Thế Âm để những điều bản thân mong cầu có thể linh nghiệm.

Đây là lý do tại sao một số người dù có chăm chỉ quỳ lạy trước Quán Âm Bồ Tát nhưng không có tác dụng gì.

Đạo Phật thường nói: “Trồng nhân lành thì gặp quả lành, gieo nhân ác thì gặp quả ác.”

Chư thần Phật, Bồ Tát tuy có thần thông quảng đại nhưng cũng không thể thay đổi nhân quả, nếu điều bạn cầu xin các Ngài đi ngược lại với luật nhân quả thì đức Phật cũng không thể giúp được bạn.

Đức Phật không thể ban phước hay giáng họa cho bất cứ cá nhân nào, mà Ngài chỉ là một bậc thầy chỉ đường, Ngài chỉ ra con đường chính pháp đúng đắn – con đường mà Ngài đã tự mình chứng ngộ, để mỗi người khi thực hành theo lời Ngài dạy mỗi ngày bớt đi tham, sân, si, đau thương, sầu muộn.

Nguyên nhân đưa đến khổ đau, không phải hoàn cảnh, không phải do người khác mà chính tự nơi mình. Vì mãi chạy theo vật chất, không hiểu rõ luật nhân quả, không học sống yêu thương, do đó phải chìm nổi trong biển khổ luân hồi, sinh vào nơi bần cùng hà tiện. Chịu biết bao gian nan, nghèo cùng, khốn khó.

Ở đời dù giàu hay nghèo, khôn hay dại, ai cũng muốn mình được đầy đủ vật chất lẫn tinh thần, đầm ấm, hạnh phúc. Thế nhưng, muốn có quả nhưng lại chẳng muốn gieo nhân, hoặc gieo nhân ác mà cứ muốn hái quả lành, đừng trách sao tìm hạnh phúc mãi không thấy, chỉ toàn thấy khổ đau.

Khổ quá thì nghe ai nói chỗ nào cầu xin linh thiêng, sẽ ăn nên làm ra, rồi chạy đến để cầu khẩn mà không biết được rằng muốn giàu sang thì phải gieo nhân bố thí, cho đi mà chẳng mong cầu.

Những quả thiện lành không thể cầu mà có được, chúng ta phải gieo nhân tốt mới có được quả tốt. Chúng ta nên hiểu rõ hậu quả của các thói quen và hành động tham lam, giận dữ, si mê và cố chấp, kết thúc các nguyên nhân tiêu cực này, các tình trạng đau khổ vô hình hay cụ thể sẽ tự biến mất.

Cho nên khi khấn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta phải suy niệm trong tâm, vấn đề mình đang cầu xin Bồ Tát có phù hợp với nhân quả không?

Nếu bạn là người kinh doanh, người buôn bán thịt, bạn đến chùa cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho việc kinh doanh của mình ngày càng ăn nên làm ra, tiền vào như nước, Bồ Tát có thể giúp bạn như thế nào đây? Nếu Ngài thỏa mãn nguyện vọng của bạn, thì sẽ làm tổn thương nhiều chúng sinh hơn. Đương nhiên những điều đó Bồ Tát sẽ không giúp bạn.

Người lười biếng, không chăm chỉ làm việc, không nỗ lực học hành, chạy đến xin Bồ Tát cho mình phát tài, thành công, thi cử đỗ đạt ghi tên vào bảng vàng. Đây rõ ràng là những điều trái với nhân quả, dù bạn có cầu xin Bồ Tát cũng là vô ích.

Ai cũng cầu cho an khang, sung túc, yên lành, nhưng lại buôn gian, bán lận, buôn hàng giả, hàng nhái, buôn thuốc giả, thức ăn kém an toàn; uống rượu bia, điều khiển phương tiện giao thông, gây gổ đánh nhau… thì sao thân lành, tâm an lạc được. Con người đang cầu an cho chính mình nhưng lại đem bất an cho người khác. Vậy có hợp lý không, có được Phật Thánh phù hộ không?

Cuộc sống sẽ chẳng tươi đẹp nếu chúng ta chỉ có những ước muốn thuần túy mà không có những hành động thiết thực. Chính vì lẽ đó mà mối quan hệ nhân – quả luôn được Phật giáo đề cao và răn dạy mọi người phải nghe theo.

Nguyên tắc thứ 2: Những việc bạn LÀM đều phải hợp nhân quả

Khi đứng trước Phật Bà Quán Âm Bồ Tát, chúng ta phải luôn quán chiếu lại hành vi của mình, nhớ lại xem mình có làm điều gì vi phạm nhân quả hay không. Đây chính là điều thứ 2 cần ghi nhớ trong nguyên tắc khấn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.

Nếu thường sát sinh, trộm cắp, tà dâm, uống rượu, nói bậy, nói tục, nói dối, nói lời ác khẩu làm tổn thương người khác, dù bạn có cầu xin Bồ Tát gia trì cũng vô ích, bởi vì nhân ác chắc chắn sẽ mang lại quả ác.

Chư Phật, chư Bồ Tát cũng chỉ là tác duyên cho chúng ta. Còn việc chúng ta cầu nguyện có linh ứng hay không còn phụ thuộc vào phước báu của mình ra sao. Chúng ta không thể đòi hỏi cái gì vượt quá phước báu của mình được.

Muốn có phước báu để có thể cầu được ước thấy, ta phải tích lũy đầy đủ từ các thiện căn của bản thân ta.

Trong kinh Đức Phật nói rằng chuyện Chư Thiên, Chư Thần hộ trì là có thật nhưng các Ngài hộ trì theo duyên phước của chúng sinh, nếu bản thân người đó vô phước thì cũng sẽ không có ai hộ trì.

Ví dụ như có những người ăn xin, ăn mày, ai nhìn thấy cũng bố thí cho; nhưng cũng có những người ăn xin, ăn mày, ai nhìn thấy cũng ghét và không muốn cho. Đó là do phước báu của người ăn xin.

Cho nên, trước khi chúng ta muốn cầu nguyện cái gì, chúng ta nên tích lũy phước báu và chuẩn bị cho các duyên được đầy đủ. Cách đơn giản nhất chính là chăm hành thiện tích đức, kết thiện nhân ắt sẽ gặt thiện quả, phước báu ngày càng sâu dày.

Chư Phật, Bồ Tát cũng không thể cho chúng ta quá phước báu của các Ngài. Các Ngài có thể “ứng phước trước” cho chúng ta giống như cho chúng ta vay trước, nhưng đó là khi các Ngài nhìn thấy khả năng hoàn trả được phước của chúng ta, tức là chúng ta phải tu tập tinh tấn, giữ giới làm phước để được hưởng đúng số phước đúng như các Ngài đã “ứng trước”.

Khi phước báu đầy đủ thì các việc sở cầu của chúng ta sẽ tự nhiên được linh ứng. Còn nếu mình thật sự không có phước báu hay thiện căn thì cầu mỏi miệng cũng không được.

Đó là lý do có những người chuyên đi khấn thuê, kêu thay, lạy đỡ,… họ khấn rất hay, rất giỏi nhưng họ vẫn rất khổ và nghèo. Cho nên, chúng ta thấy việc thành tựu cầu nguyện không phải là do khấn hay, khấn giỏi mà là do phúc báu của chúng ta đến đâu thì chúng ta hưởng đến đó.

Trong cuốn “Thái thượng cảm ứng thiên” viết: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.”

Câu này ý rằng họa phúc của một người đều không có cửa mà là do bản thân người ấy tự gây ra. Làm ác thì gặp họa, làm lành thì được phúc, sự báo ứng như hình đi với bóng, không sai một điểm.

Khổng Tử cũng giảng: “Hoạch tội vu thiên, vô sở đảo dã”, ý nói phạm tội với Trời thì không cách nào xoay chuyển được.

Chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ, hạt giống lành dữ ấy không bao giờ bị mất, khi hội đủ nhân duyên, ta sẽ thọ nhận tất cả quả khổ vui do mình gây ra.

Cho nên khi bạn đến chùa cầu xin Bồ Tát, bạn phải cầu những điều có lợi cho tất cả chúng sinh nhiều hơn, cầu nguyện cho cha mẹ, đừng luôn nghĩ đến việc thăng tiến và làm giàu cho bản thân.

Khi cúi đầu khấn cầu dưới chân Quán Thế Âm Bồ Tát, hãy cố gắng đừng mưu cầu hạnh phúc cho mình mà mong tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau, mạnh khỏe và bình an.

Cầu mong cho tất cả chúng sinh kết nhiều thiện nghiệp, tạo được nghiệp lành, cầu được ước thấy.

Vì khi bạn đứng trước Phật Quán Thế Âm Bồ Tát sinh lòng từ bi, cầu phúc cho người khác, bạn sẽ càng dễ nhận về phúc báo và may mắn nhiều hơn.

Nguyên tắc thứ 3: Bạn phải TIN vào luật nhân quả

Nhân quả trong đạo Phật dạy giúp ta sống phải có trách nhiệm trong từng ý nghĩ, lời nói và hành động. Nếu chúng ta không tin nhân quả, ta sẽ sống vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chỉ biết tham lam ích kỷ để làm tổn thương người khác.

Đã tin theo đạo Phật thì phải tin nhân quả, làm nhiều việc thiện, ít làm điều ác, chỉ khi gieo nhân lành, tạo duyên với Bồ Tát thì may mắn mới tìm đến.

Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn loạn của đời sống một cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả và không sống theo nhân quả.

Vốn dĩ Phật Bồ Tát luôn đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh. Ngài sẽ không chỉ ban phước cho bạn vì bạn thường thờ cúng và vái lạy Ngài, đồng thời Bồ Tát cũng sẽ không trừng phạt ai vì họ không thích bái Phật.

Và nếu bạn không tin vào nhân quả, không gieo nhân lành mà lại muốn cầu xin Bồ Tát phù hộ để gặt hái quả lành thì Ngài chắc chắn không thể giúp bạn.

Theo quy luật muôn đời, nhân quả không tự trói người trong bất hạnh hay nhấn chìm người trong khổ đau, mà tất cả phụ thuộc vào cách sống, cách cư xử và hành động của chính mình.

Cũng có nhiều Phật tử ăn chay, niệm Phật, cúng dường, bố thí, làm phước mà vẫn thường gặp những chuyện không may, rồi cũng đôi ba lần nghi ngờ luật nhân quả.

Nhưng đạo Phật dạy nhân quả tồn tại cả ở 3 đời: quá khứ, hiện tại, tương lai, nên khi gieo nhân bố thí, cúng dường, tu hành mà vẫn gặp khổ nạn là do những kiếp trước làm ác nên giờ mới trổ quả mà thôi.

Ác giả thì ác báo, thiện giả thì thiện báo, đây là điều không thể khác được.

BÀI VIẾT HAY ĐỪNG BỎ LỠ

Top Car News Car News