Phong Thuỷ

Đới nghiệp vãng sanh là gì? Có cách nào để được Đới nghiệp vãng sanh?

Đới nghiệp vãng sanh là gì? Có cách nào để chúng sinh được Đới nghiệp vãng sanh? Đới nghiệp vãng sanh về Cực Lạc có phải để ngồi chơi, hưởng nhàn?

đới nghiệp vãng sanh, tâm linh bí ẩn, đới nghiệp vãng sanh là gì? có cách nào để được đới nghiệp vãng sanh?

1. Đới nghiệp vãng sanh là gì?

Với chúng sinh biết tu tập tốt, có đủ phẩm hạnh giải thoát, phát bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo, phát nguyện niệm Phật thì chắc chắn về thượng phẩm cõi Tây phương. Với những người tuy tạo nhiều ác nghiệp biết hồi tâm niệm Phật, cho dù chỉ thành tựu mười niệm danh hiệu Phật trước giờ lâm chung (chết) cũng được vãng sanh. Ý nghĩa này, giáo lý Tịnh độ gọi là “Đới nghiệp vãng sanh”, tức chưa dứt hết phiền não mà được sanh về Cực lạc.

Đới nghiệp vãng sanh có nghĩa là về cõi Cực Lạc mang theo hết tất cả những nghiệp chướng của mình, bước vào thai sen ở một quả vị thấp nhất gọi là Hạ Phẩm Hạ Sanh.

Chúng ta biết rằng Đức A Di Đà Phật tiếp đón người của cõi Ta Bà đến nơi đây và tất cả được an trụ qua 3 quả vị (tùy trình độ tu tập thấp cao khi người đó còn tại thế).

Ba quả vị là: Thượng phẩm, Trung phẩm và Hạ phẩm. Ở mỗi quả vị sẽ có 3 cấp: Thượng, Trung, Hạ.

Tất cả những người được vãng sanh về Cực Lạc đều còn mang nghiệp của mình đi theo. Trình độ tu tập của một người khi còn tại thế, ảnh hưởng rất là lớn lao đến sự thăng tiến của một Thánh Chúng Đới nghiệp vãng sanh.

Những người không biết tu tập, chưa từng tu tập hoặc tu tập rất ít, do một duyên may mà được về Cực Lạc, thì những người này đương nhiên sẽ được an trụ ở Hạ phẩm hạ sanh. Dù ở một quả vị cao hay quả vị thấp, nhất là quả vị Hạ phẩm hạ sanh, người đến từ cõi Ta Bà vẫn luôn luôn tiếp tục làm tiêu mòn nghiệp chướng của mình, chớ không phải về Cực Lạc để ngồi chơi, hưởng nhàn.

Đặc biệt, thánh chúng Hạ phẩm hạ sanh, hoa sen chưa nở như ở các quả vị khác, việc tu tập trong suốt thời gian Thánh Chúng còn ở trong thai sen rất là phức tạp, đòi hỏi nhiều sự nhẫn nại, trì chí, sự tận lực, tận cường của Thánh Chúng đó, cũng như sự cực nhọc rất nhiều của các Bồ Tát có nhiệm vụ hướng dẫn các Thánh Chúng đó tu tập.

2. Cách nào để Chúng sanh được Đới nghiệp vãng sanh

Một chúng sanh muốn được Đới nghiệp vãng sanh cần phải đạt những tiêu chuẩn nào? Người có tu tập chút ít lúc còn sống có đạt được tiêu chuẩn này hay không? Nếu một người tu tập khá hơn, có đương nhiên về Cực Lạc theo “Đới nghiệp vãng sanh” hay không?

Thứ Nhất:

Phật từng nguyện rằng: “Những chúng sanh nào vào lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn niệm danh hiệu của ta bảy lần, từ một ngày cho đến bảy ngày, thì ta sẽ rước chúng sanh đó về cõi Cực Lạc”.

Thời điểm sắp qua đời, khi thân tứ đại bắt đầu xuất ra khỏi thân xác thường gây nên những điều rất là khó chịu, đôi khi đi đến sự đau đớn. Việc niệm danh hiệu Phật nhất tâm bất loạn vào phút lâm chung, ở trạng thái bình là vô cùng khó khăn.

Giữ được tâm thanh tịnh ở vào phút đó phải là một người rất là đặc biệt; giữ được nhất tâm bất loạn, tâm vẫn sáng suốt để trì danh hiệu Phật. Nhờ có duyên may nào đó dính liền với Cực Lạc, cho nên giờ phút cuối, tâm vẫn không động, trí vẫn sáng suốt. Tuy nhiên, số này cũng vẫn còn rất ít, kể cả người tu tập hàng ngày, giờ phút lâm chung cũng khó giữ tâm bất loạn.

Thứ Hai:

Ngoài ra, những người dốc tâm tu tập, giữ được tâm bình cho đến giờ phút lâm chung, vẫn được Cực Lạc rước ngay vào phút lâm chung.

Thứ Ba:

Nhờ được hộ niệm nên một số người vào giờ phút cuối đã hết lòng ăn năn, sám hối một cách chân thành những điều sai trái mà mình đã tạo tác, và lòng chân thành tha thiết muốn được về Cực Lạc, thì cũng sẽ được rước về Cực Lạc.

Thế nhưng đừng cho rằng cứ tha hồ làm chuyện quấy trá, miễn sao giờ phút lâm chung tôi có dạ chân thành, ăn năn sám hối là tôi được rước về Cực Lạc. Việc người đã từng làm chuyện sái quấy rất nhiều, nhưng ở phút cuối của cuộc đời, vào giây phút đối diện với cái chết đã tỏ dạ ăn năn, sám hối và lòng tha thiết muốn được về Cực Lạc thì Cực Lạc sẽ nhận ra ngay được người đó có đúng dạ chân thành hay không.

Một vong linh khi đã ngộ được điều mình sai trái và hiểu được con đường mình bắt buộc phải đi, phải sửa đổi cái tánh của mình thì khi đó sẽ có sự rung động và sự rung động đó là một sự rung động từ ở tâm chân thật.

Thứ Tư:

Có những vong linh trong thời gian 49 ngày, nếu gặp được người chủ lễ siêu độ chân thành giúp cho Thần thức, giúp cho vong linh đó hiểu rằng mình đã làm điều sai trái và nếu vong linh đó chí thành sám hối, ăn năn và một lòng muốn được về Cực Lạc thì sau 49 ngày, Thánh Chúng sẽ đến rước vong linh đó.

Phải nên nhớ kỹ một điều: một vong linh không có sự ép buộc phải đi về bất kỳ một cõi nào. Đúng ra, vong linh sau 49 ngày sẽ tùy theo nghiệp của mình mà đi, tuy nhiên, nếu gặp được người chủ lễ đem hết dạ chân thành giúp đỡ, dẫn dắt, phân tích tất cả những sai lầm của vong linh, và một khi vong linh đã giác ngộ rồi mà có sự rung động, sự rung động đó là kết quả của tấc dạ chân thành trong việc ăn năn sám hối và tha thiết muốn về Cực Lạc để tiếp tục được dạy dỗ thì vong linh đó sẽ được toại ý.

Người chủ lễ chỉ có một bổn phận duy nhất là đem sự chân thành của mình để dẫn dắt một người thiếu sự hiểu biết, và sau khi đã dẫn dắt, đã chỉ rõ những điều đúng sai, những điều nên hay không nên và vong linh đó thành tâm sám hối, ăn năn thì sự lựa chọn ở vong linh chứ không phải ở chủ lễ.

Thứ Năm:

Người có tu tập trong lúc còn tại thế, tuỳ theo công năng tu tập của người đó và có sự phát nguyện của người đó là được vãng sanh về Cực Lạc, thì người đó mới có thể được rước về Cực Lạc. Nếu người đó biết tu tập nhưng không phát nguyện về Cực Lạc thì cũng vẫn không thể về Cực Lạc được. Cho nên lời phát nguyện vô cùng quan trọng và trước mỗi thời khóa tu, đều phải long trọng lặp lại lời phát nguyện thì như vậy mới có thể chắc chắn được một sự tiếp rước về Cực Lạc.

Thứ Sáu:

Người biết tu tập là phải giữ Tâm Bình. Phải luyện tập cho được tâm bình thì như vậy mới có thể quyết chắc được rằng vào phút lâm chung mình giữ được tâm bất loạn. Tâm bình nếu không biết giữ, đợi đến phút lâm chung là đã quá muộn màng, nhất là trong sự hỗn loạn giữa cái sống và cái chết.

Tuy nhiên, nếu trong thời gian 49 ngày, người chủ lễ siêu độ hết lòng dẫn dắt, hướng dẫn để cho vong linh chí tâm sám hối, niệm Phật, cầu xin về Cực Lạc, thì Cực Lạc sẽ đến rước sau 49 ngày.

Người đới nghiệp vãng sanh với Hạ Phẩm Hạ Sanh thì hoa sen chưa nở và việc tu tập rất là phức tạp, cực nhọc cho cả Thánh Chúng ở trong hoa sen đó và cho luôn cả các vị Bồ Tát phụ trách chỉ dạy cho các Thánh Chúng đó.

3. Cách làm tan bớt nghiệp lực

Nếu một Thánh Chúng đới nghiệp vãng sanh ở Hạ Phẩm Hạ Sanh mà không cố gắng tu tập để bước sang một phẩm vị khác, thì thời hạn là năm trăm kiếp người. Sau thời hạn này thì Thánh Chúng đó được đưa sang một nơi khác, vẫn không rời Cực Lạc để được dạy dỗ nhiều hơn, cực nhọc nhiều hơn nữa.

Làm cách nào để cho tan nghiệp lực? Thánh Chúng chỉ có một vũ khí duy nhất để chống và đánh cho tan nghiệp lực: đó chính là Sám Hối. Làm sao để tỏ dạ chân thành sám hối? Vì chính sự chân thành mới khiến cho có sự rung động ở Tâm và làm tan đi nghiệp chướng.

Mà việc sám hối bắt buộc phải liên tục, không ngừng nghỉ cho đến khi giải quyết được một nghiệp lực, rồi hai nghiệp, rồi ba nghiệp lực … cho đến khi Thánh Chúng đó đủ “nhẹ” để làm cho hoa sen nở ra. Hoa sen nở ra không có nghĩa là Thánh Chúng ngưng việc sám hối.

Nếu một người chăm lo tu tập trong suốt quãng đời của mình, luôn giữ được tâm bình ở vào phút lâm chung, khi đó, nếu có người giúp đỡ hộ niệm, hoặc thân nhân hiểu biết nhắc nhở (vì thần trí có thể bị rối loạn vào phút cuối cùng) bằng cách trì Chú, niệm Phật, người đó sẽ được vãng sanh ngay khi hắt hơi cuối cùng.

Vì vậy, tu ở cõi Ta Bà, nếu dốc lòng hết sức thì kết quả sẽ vô cùng tốt đẹp hơn là tu ở cõi Cực Lạc, rút ngắn thời gian trong thai sen và sẽ được thảnh thơi hơn so với những người không biết tu tập, đợi lên đến Cực Lạc mới bắt đầu tu tập thì phải gặp nhiều khó khăn hơn.

Chỉ bỏ ít thời gian, mỗi ngày một chút thì giờ để tu tập, để cho trí huệ của tôi được phát sáng, để cho tôi tập giữ Tâm Bình, giờ phút lâm chung, thần trí tôi không bị hỗn loạn, tôi không gặp sự khó khăn khi hắt hơi cuối cùng. Thì như vậy, tôi sẽ được Phật và Bồ tát cùng Thánh Chúng rước tôi ngay vào giờ phút lâm chung.

Việc tu tập không đem lại điều bất lợi cho một chúng sanh nào cả, mà luôn luôn giúp cho chúng sanh đó được nâng cao tư cách của con người, từ vật chất cho đến tinh thần, từ Đời cho đến Đạo.

Nhờ vào một tâm trí luôn luôn biết giữ cho mình một giới luật nghiêm minh, tránh những tư tưởng không tốt, tránh những hành động không nên, tránh những lời nói không thuận ý. Tâm trí và thân xác có sự hòa hợp với nhau làm cho chúng sanh đó cảm thấy luôn được nhẹ nhàng, không gút mắt, sống thanh thản và bình an.


Làm thế nào để chúng ta có thể chuyển nghiệp, thay đổi số phận?

Dẫu có tiền tài, danh vọng, gia đình với con đàn cháu đống thì khi chết đi chúng ta cũng không thể mang theo được gì, chỉ có “nghiệp báo” là ở lại với chúng ta. Chính cái nghiệp báo này là nguyên nhân làm cho chúng ta sung sướng hay đau khổ vậy. Khi giác ngộ được điều đó, chúng ta cần phải tìm cách dừng nghiệp, tìm cách chuyển nghiệp bất thiện thành nghiệp thiện.

Tinh thần nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, vì nhân quả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai không phải gây nhân nào chịu quả ấy như nhiều người thường lầm tưởng. Đối với người biết tu thì nhân quả sẽ thay đổi nhiều hay ít tùy theo khả năng tu tập của mỗi người. Cho nên Phật dạy: Tu là chuyển nghiệp phiền não khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Nhân quả xấu có thể thay đổi được – chuyển nghiệp

Đức Phật đưa ra một ví dụ để chứng minh nhân quả xấu có thể thay đổi được, một nắm muối nếu hòa tan trong ly nước thì nước sẽ mặn không thể uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong bình nước lớn có sức chứa khoảng hơn trăm lít, thì nước trong bình sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mặn mặn. Và nếu nắm muối đó được hòa tan trong một ao nước lớn gấp năm mười lần bình kia, nước sẽ không còn mặn, chúng ta có thể sử dụng bình thường.

Nhân xấu ác là được xem như là vị mặn của nắm muối hòa tan trong ly nước nhỏ thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của nắm muối hòa tan trong bình nước lớn hơn gấp trăm lần thì vị mặn sẽ bị loãng ra, nước có thể tạm dùng giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong ao nước lớn, thì nắm muối không thấm vào đâu, nước có thể sử dụng.

Cũng lại như thế, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm khi tạo nhân xấu ác thì trả quả ác nguyên vẹn. Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong bình nước lớn, tuy có chút vị mặn nhưng cũng có thể tạm dùng qua ngày. Còn nếu chúng ta biết tu thân, tu giới, tu tâm như nắm muối được hòa tan trong ao nước to, bởi muối quá ít so với lượng nước quá nhiều, nên chúng ta có thể dùng bình thường.

Chính vì vậy, khi lỡ làm ác mà chúng ta biết tu thân, thì nhân quả xấu, sẽ được chuyển mà không thọ đúng như khi gieo nhân. Nếu khi gây nhân ác chúng ta biết tu thân, tu giới thì sẽ chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn khi gây nhân ác mà biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gần như chuyển quả xấu hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển nghiệp, là chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc.

Cho nên nói nhân nào quả nấy là chỉ cho những người không chịu tu, vì họ chấp nhận số phận đã an bài nên càng tạo nghiệp xấu nhiều hơn, người biết tu thì sẽ sám hối, thay đổi được nhân quả xấu, tùy theo khả năng tu cao hay thấp mà thôi.


Sám hối có xóa sạch được tội lỗi? Sám hối thế nào cho đúng cách?

Đức Phật dạy “Trên đời có hai hạng người đáng quý nhất, một là người không mắc phải lỗi lầm gì, hai là người có lỗi nhưng biết sai và sửa chữa”. Nhưng trong cuộc đời này, ai cũng đã từng có lỗi lầm, và khi phạm lỗi phải biết sám hối, vậy sám hối là gì?

– Sám là sự ăn năn hối tiếc những lỗi lầm mình gây ra từ trước.

– Hối là nguyện từ bỏ lỗi lầm từ hôm nay trở về sau.

Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là quán chiếu lại bản thân, xem mình đã phạm phải những lỗi lầm gì qua thân, khẩu và ý, từ đó thể hiện tâm ăn năn hối cải, và nguyện không để những hành vi sai trái như vậy xảy ra lại trong tương lai.

Sám hối là biết xấu hổ, hối cải những tội lội của mình sau khi biết việc đó là sai lầm tội lỗi. Việc nhận ra các việc làm sai lầm tội lỗi đó là nhờ vào Trí Tuệ trong mỗi chúng ta. Nhưng nếu như chúng ta chưa đạt được Trí Tuệ như chư Phật hay Bồ Tát để biết được việc nào là đúng việc nào là sai lầm tội lỗi thì cần phải nhờ đến Phật Pháp soi rọi, đối chiếu các việc làm đó với lời dạy của Đức Phật mà đặc biệt là so sánh với 5 Tịnh Giới, 10 Thiện Giới.

Nếu thấy phù hợp thì đó là việc làm thiện đưa đến Phước báu trong tương lai, nếu trái ngược thì biết đó là việc làm sai lầm tội lỗi đưa đến quả xấu trong tương lai.

Nếu vì không biết mà tái phạm thì cần phải sám hối đúng pháp. Việc sám hối đúng pháp như trong bài Kinh Tàm và Quý Đức Phật đã dạy rất rõ. Đây cũng là bài kinh Đức Phật dạy về sám hối đúng Pháp, ý nghĩa Tàm Quý là thấy rõ lỗi lầm, xấu hổ ăn năn quay đầu sám hối và nguyện từ bỏ việc xấu ác không bao giờ tái phạm vào nữa.

Như vậy, trong lời dạy này cần làm đó là nhận ra được các việc làm sai lầm tội lỗi mà sám hối. Việc thứ hai quan trọng hơn đó là nguyện từ bỏ các việc ác mà không bao giờ tái phạm vào nữa.

Đức Phật cũng thuyết bài Kinh tương đương là bài Kinh Về Ba Hạng Người.

Hạng người thứ nhất là hạng người đi từ chỗ sáng tới chỗ sáng, tức chỉ cho các bậc trí tuệ như Đức Phật hay những vị Bồ Tát đã giác ngộ vạn pháp, hiểu rõ luật nhân quả … từ khi sinh ra đời cho đến khi nhập Niết Bàn không bao giờ phạm vào các tội lỗi.

Hạng người thứ hai là hạng người đi từ chỗ tối đến chỗ sáng là hạng người phạm vào tội lỗi mà biết ăn năn sám hối nhờ gặp được và tin vào Phật Pháp, tin vào nhân quả nghiệp báo mà nguyện từ hết bỏ các việc ác, không bao giờ tái phạm, đây cũng là hạng người Trí Tuệ được Đức Phật tán thán ca ngợi.

Điển hình nhất cho hạng người nầy là có tướng cướp Vô Não, vì yêu thích học thần thông mà nghe lời người thầy ngoại đạo để đi chặt 100 ngón tay để đổi lấy thần thông. Vì còn thiếu mấy ngón tay nữa nên về định chặt tay của mẹ mình, cũng may nhờ Đức Phật đến hoá độ kịp thời nên Vô Não nhận rõ ra đó là lỗi lầm, liền buông dao quỳ sám hối trước Đức Phật và Mẹ.

Đức Phật dạy Vô Não hãy từ bỏ luôn con dao trong tâm: tức là tham, sân, si trong tâm mới được an tịnh mãi mãi. Vô Não đã vâng theo lời dạy của Đức Phật, lập tức đã từ bỏ Tham, Sân, Si nên đắc quả A La Hán, từ đây không bao giờ trở lại làm ác nữa, từ đó luôn được an lạc giải thoát.

Tuy dư nghiệp quả khổ xưa kia Ngài đã tạo ra giờ có gánh chịu nhưng vì tâm ngài hết oán thù sân hận nên Ngài đã hỷ xả tất cả trong nhẹ nhàng cho dù bị người ta có mắng chửi, đánh đập.

Hạng người thứ hai nầy có rất nhiều người, nhiều hành giả đã chứng thánh quả giải thoát luân hồi. Trong khi ấy chúng ta thì tuy có sám hối về bao lỗi lầm như vì tâm vẫn còn vô minh tham sân si mà đã tạo ra tội lỗi từ bao đời kiếp trước.

Tuy có sám hối nhưng sự sám hối của chúng ta chưa thật đầy đủ nghĩa là gốc tham sân si vẫn còn nên lại tái phạm để rồi cứ luân hồi khổ mãi trong vòng luân hồi lục đạo, khi có tí Phước thì sinh làm tiên làm người, khi hết phước, lại nhiều tội lỗi thì đoạ làm súc sanh trâu, ngựa …

Thậm chí là đoạ vào địa ngục với bao khổ ải, phải nhờ Đức Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Quán Thế Âm … từ bi dẫn đường chỉ lối về đường chánh để đầu thai đi lên. Như vậy chúng ta phần lớn cũng được xếp vào hạng người thứ hai nầy nhưng chưa trọn vẹn.

Hạng người thứ ba là hạng người đi từ chỗ tối đến chỗ tối tức hạng không tin Phật Pháp, không tin nhân quả nghiệp báo nên tạo ra bao việc xấu ác, tội lỗi mà không biết đó là việc ác mà cứ cho rằng việc đó là đúng nên muôn đời cứ trôi lăn trong tam đồ ác đạo, địa ngục ngạ quỷ súc sanh chịu bao tội khổ vô cùng.

BÀI VIẾT HAY ĐỪNG BỎ LỠ

Top Car News Car News