Gió là sự chuyển động của không khí. Các triết gia thời xưa có đủ các loại nhận thức về gió. “Trang tử – Tiêu dao du” viết “Đất thở dài, hơi thở thành gió”. “Hoài Nam tử – Thiên văn huấn”: “Khí của trời, lúc giận là gió”. “Thuyết uyển”: “Khí của trời đất giao hòa thì sinh ra gió”.
Gió có quan hệ đến sự lành dữ của con người. Gió làm đổ nhà đổ cửa, tắc nghẽn giao thông. “Sử ký – Thiên quan thư” có ghi: “Gió từ phương nam đến: đại hạn; từ tây nam: hạn nhỏ, từ phương đông: nước lớn; từ đông nam: dân bị ốm đau, mất mùa.”
Tôn sùng gió, tất nhiên phải quan sát gió. Thời Hán rất thịnh hành phong giác. Phong giác là một thuận chiêm phong (quan sát gió). Do vậy, thuật xem đất, coi gió là một trong những nội dung quan trọng.
Thời Nam Tề, ở Hành Dương, nhân dân tin rằng ốm đau là do tiền nhân giáng họa, phải đào mộ tổ, mở nắp quan tài, đem xương cốt ra rửa, gọi là “tẩy cốt trừ xui” (rửa xương để giải xui). Sau này, Cố Hiến Chi người đất Ngô làm nội sử Hành Dương, tuyên truyền trong dân đạo lý về sinh tử, giải thích những chuyện ốm đau không liên quan đến người đã mất, cuối cùng mới thay đổi được tục đó.
Đất táng hoặc dở, được coi là có liên quan đến lành (cát) dữ (hung). Người Tống cho rằng không nên táng ở chỗ đất trước đây đã táng. Tiềm Hi Bạch chép rằng, vợ của Tiền Văn Bỉnh chết. Tiền thạo môn địa lý từ nhỏ, chọn được một huyệt trong rừng thông bên cạnh viện Báo Ân. Một nhà sư bảo Văn Bỉnh chỗ đấy là mộ cũ cửa thánh hiền, không thể sử dụng lại mộ huyệt. Văn Bỉnh không nghe, đào lên thì thấy mấy phiến đá, trong đá bay ra một mũi tên đen trúng vào lông mày bên phải của Văn Bỉnh. Đầu Văn Bỉnh sưng to bằng cái đấu, đêm hôm đó thì chết. Nghe nói đây là mộ của Do Dư không được động đến. Từ đó, người Tống luận rằng, mộ huyệt cũ của thánh hiền thì không được động vào, nếu không sẽ gặp chuyện dữ.
Do đó dân gian hết sức coi trọng chuyện chôn cất. “Chu tử gia lễ” chép: người dân thường chết sau ba tháng mới chôn, vì đầu tiên là phải tìm đất, sau đó là chọn ngày đào huyệt.
Người Trung Quốc xưa kia cho rằng: “xem đất làm nhà, phải xem hình thế khí sắc, cây cỏ đổi thay, họa phúc xen kẽ, lành dữ còn mất. Xem đất để mả, phải luận được thiện ác của núi đồi, chính tà của vùng đất, an nguy do qủy thần, hưng tuyệt của con cháu”. Sách “Chư tạp thôi ngũ tính đẳng trạch đồ kinh” viết: “Âm trạch phúc tại nam, đức tại tây”. “Bắc có ao đầm, nam có đất cao, và có rừng cây xanh tốt, ở đất ấy thì tốt (cát) lành. Nếu đất dữ phải trấn trạch”. Sách “Âm dương thư”, đề cập đến phép trấn trạch, như sau: “Phàm chỗ ở bất lợi, sinh bệnh, bỏ nhà đi, hao tài, thì lấy 90 cân đá xếp vào cửa quỷ sẽ đại cát lợi”.
Quan niệm của người Trung Quốc dưới huyệt có nước ngầm hoặc đá ngầm, nên đặt mộ tránh đi chỗ khác để cầu phúc. Theo các nhà âm dương thì đất bằng phẳng là tốt nhất, thứ đến nghiêng về đông nam, tây bắc cao. Đất dốc thì nước chảy không đọng xung quanh, đất cao thì đồi núi ôm lấy mà không bị khuyết. Nếu chọn đất đúng như thế thì lành, trái lại thì dữ.