Phật học

Niệm Phật là gì? Vì sao phải niệm Phật? Điều cần biết khi niệm Phật

Niệm Phật là gì? Chữ niệm có nghĩa là nhớ, suy nghĩ, chữ Phật lại có nghĩa là giác. Như vậy, niệm Phật tức là chúng ta luôn luôn nhớ, nghĩ đến Phật hay nói rộng hơn là chúng ta luôn sống trong tỉnh thức và có chánh niệm trong mọi hành động.

niệm nam mô a di đà phật, niệm phật là gì, tụng kinh niệm phật, niệm phật là gì? vì sao phải niệm phật? điều cần biết khi niệm phật

Hiện nay, Niệm Phật đã và đang phổ biến đối với những ai đang trên bước đường tu học Phật. Tuy nhiên, cần hiểu rõ và có sự nhìn nhận sâu sắc hơn về niệm Phật, cũng như khái niệm và mục đích của niệm Phật để có thể vận dụng việc hành trì niệm Phật để đem lại sự an lạc cho tự thân.

1. Niệm Phật là gì?

Chữ niệm có nghĩa là nhớ, suy nghĩ, chữ Phật lại có nghĩa là giác. Như vậy, niệm Phật tức là chúng ta luôn luôn nhớ, nghĩ đến Phật hay nói rộng hơn là chúng ta luôn sống trong tỉnh thức và có chánh niệm trong mọi hành động.

Khi tâm ta bị chi phối bởi những tạp niệm thì ta sẽ dùng tiếng niệm Phật để lấn áp đi những dòng suy nghĩ tạp niệm ở trong lòng và có thể đặt tâm mình vào trong xâu chuỗi mà khi ta đang hành trì.

Lúc này, tiếng niệm Phật sẽ dần dần đi vào nội tâm ta và bản thân mình cần phải xóa bỏ đi những uế trược, phiền não trong lòng, từ đó ta có thể gạn lọc và chuyển đổi tâm của ta từ cái ác trở thành thiện, từ tạp niệm chi phối đưa đến sự thanh tịnh và giống với cảnh giới của chư Phật.

2. Mục đích của việc niệm Phật

Niệm Phật để đưa đến sự nhất tâm

Làm sao để ta áp dụng niệm Phật trong các vấn đề sinh hoạt hằng ngày. Khi ta đang làm một việc gì đó, không thể nào chúng ta vừa làm rồi miệng lại niệm Phật cùng một lúc được, có khi lại gây ảnh hưởng xấu.

Do vậy, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta tập trung nhìn nhận rõ, đâu là đúng, đâu là sai, đâu là cái cần phải gạt lọc, đó là ta đã sống trong giây phút của tỉnh thức rồi, việc này đồng nghĩa với việc chúng ta niệm Phật.

Niệm Phật để được giải thoát

Niệm Phật là để được giải thoát, vậy từ giải thoát là gì? Chữ giải có nghĩa là mở, thoát là ra, nhưng đôi khi chúng ta không hiểu rõ rồi lại nhìn chữ giải thoát này ở một mức độ cao siêu xa vời. Chúng sinh luôn bị Tam độc Tham – Sân – Si chi phối trong lòng, do đó việc niệm Phật là làm sao thoát khỏi sự ràng buộc của ba yếu tố này.

Ví như trong cuộc sống, ta làm ra đồng tiền, có nhiều thì tiêu nhiều, có ít thì tiêu ít, tùy vào khả năng có được mà chúng ta sử dụng hợp lý và không bị đòng tiền lôi cuốn bản thân mình vào những con đường tội lỗi khác. Ta sẽ không bị dính mắc và lệ thuôc vào nó, thì lúc này chúng ta đã thoát khỏi sự ràng buộc của tham và làm chủ bản thân mình, như vậy mới thật sự niệm Phật giải thoát ngay ở trong hiện tại này mà không tìm một sự giải thoát ở đâu xa vời.

Giải thoát nằm ngay ở trong tâm thanh tịnh của mỗi người. Tâm của ta có sự an lạc, giải thoát tâm hồn thì ngay đó ta sống với thế giới thanh tịnh của chư Phật. Chúng sinh ai cũng có Phật tính sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp, nên không nhận ra được tự tính sáng suốt của mình. Vì vậy, việc niệm Phật giúp ta trở về bản thể thanh tịnh của chính mình. Có nhiều người cũng nghĩ rằng, niệm Phật để được Đức Phật tiếp dẫn về một thế giới nào đó. Điều này vô tình lại làm chúng ta thiếu đi niềm tin vững chắc vào khả năng tu tập của chính mình.

Trong kinh Đức Phật dạy, ví như chúng ta trồng một cây nằm ở hướng tây thì khi gió đến, nó sẽ ngã theo chiều của hướng tây. Cũng thế, nếu như hằng ngày ta luôn vun bồi và tạo nhiều công đức lành thì kết quả an lạc sẽ đến với ta và khi mất thân này chúng ta sẽ được tái sinh vào một cảnh giới an lành.

Cũng giống như người ăn cơm nếu ăn một bát thì no theo một bát, nếu ăn nhiều thì no nhiều, nhưng tự thân họ cũng có lương thực để an lòng. Do đó, tùy vào mức độ mà ta tu tập nhiều hay ít thì tự thân sẽ được sinh vào cảnh giới thích hợp với quá trình công phu tu tập của mình.

Niệm Phật để được vãng sinh

Vãng sinh là sự kết thúc của cuộc đời này để sinh qua một thế giới khác, hay nói nghĩa rộng hơn, đó là cách chuyển hướng thay đổi từ cách sống này sang một lối sống mới.

Ví như trước giờ ta sống trong sự giận hờn, buồn phiền và không làm chủ được tâm hồn. Nhưng khi hiểu được sân là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ, lúc này chúng ta liền khắc phục sai lầm và thay đổi tích cực mạnh mẽ, đó là chúng ta đã chuyển đổi từ một cuộc sống sân hận thành một cuộc sống bao dung tha thứ, và đó cũng chính là vãng sinh.

Cũng giống như một người ham hút thuốc nhưng khi phát hiện mình bị bệnh nên lập tức bỏ ngay sự ham muốn ấy, có nghĩa là người này đã thay đổi từ một thói xấu chuyển thành một đức tính tốt thì đó cũng gọi là vãng sinh.

Như vậy, không cần phải chết mới được vãng sinh mà ngay trong đời sống hiện tại ta cũng đã được vãng sinh rồi. Vì vậy, vãng sinh là sự thay đổi từ những đức tính xấu ác của con người để trở về con đường thánh thiện, từ một người với thói quen đầy sự ích kỷ, nhỏ nhen trở thành một người có tấm lòng bao dung, độ lượng và cao hơn nữa đó là từ phàm phu bước lên một bậc của thánh hiền.

Hành giả tu tập, niệm Phật cần phải thực tập và áp dụng việc niệm Phật vào trong đời sống hằng ngày để chúng ta tìm được nguồn an lạc hiện thực và luôn luôn trong thế giới của Đức Phật, đoạn dứt những phiền não để trở về bản thể thanh tịnh vốn có của mình, và đó mới là mục đích cao cả của việc niệm Phật.

niệm nam mô a di đà phật, niệm phật là gì, tụng kinh niệm phật, niệm phật là gì? vì sao phải niệm phật? điều cần biết khi niệm phật

3. Những điều cần biết khi niệm Phật

Điều 1: Cách niệm Phật

Niệm Phật gồm có: trì danh niệm Phật , quán tướng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thật tướng niệm Phật. Nhưng trì danh niệm Phật là phương pháp quan trọng nhất, dễ hành trì và dễ thành tựu. Khi trì danh niệm Phật có hai loại: Niệm gấp và niệm quởn.

Niệm gấp là niệm nhặt, liên tục nối tiếp nhau không dứt. Đây là cách dành cho những người niệm Phật nhưng bị tâm vọng tưởng chi phối, cần niệm nhanh để nương tựa hồng danh chư Phật ngăn vọng tượng phát khởi. Chúng ta có thể niệm là Nam Mô A Di Đà Phật hoặc nếu vọng tưởng vẫn còn nhiều thì sẽ lượt luôn hai từ Nam Mô.

Cần niệm cho đến khi thành thói quen, câu niệm Phật tự vang động trong lòng và vọng niệm bớt đi thì chúng ta chuyển sang niệm quởn.

Niệm quởn là niệm nhẹ nhàng, khoang thai, có ngữ điệu trong tâm. Cách này áp dụng khi ngồi thiền, khi tâm hồn đã lặng rồi. Tuy nhiên cách niệm quởn sẽ dễ bị hôn trầm (buồn ngủ). Cách đối trị tình trạng này như thế nào? Có những người kêu đứng dậy đi hay là sám hối v.v… Nhưng mà thời khóa người ta 2 tiếng đồng hồ người ta mới mãn. Thì khi ấy chúng ta nên niệm nhiếp miệng, có thể thành tiếng nhỏ hoặc tiếng to nếu không vượt qua cơn hôn trầm đó.

Điều 2: Niệm Phật vọng niệm có tội không?

Chúng ta nên nhớ rằng: Vọng tưởng là bản chất của con người, khi niệm Phật chúng ta mới biết mình có vọng tưởng. Bình thường chúng ta vọng tưởng mà chúng ta không có biết, cho nên nhờ niệm Phật mới biết mình có vọng tưởng.

Vì thế, nếu ai cho rằng: Niệm Phật mà vọng tưởng là tội thì đó là một định kiến quá khắc khe cho người tu tập.

Bởi vì con người chúng ta muốn được thanh tịnh thì phải từ cái chỗ vọng tưởng này lần lần điều phục mà nên. Mà nếu chúng ta niệm Phật vọng tưởng có tội thì thôi chúng ta đừng niệm Phật nữa để tưởng các chuyện khác đi, tưởng về tiền tài sắc dục danh vị, tất cả mọi thứ khác tưởng đi.

– Cho nên vọng tưởng không có tội, quá chăng là niệm Phật mà vọng tưởng công đức nó sẽ giảm hơn ít hơn cái người niệm Phật thành tâm và thanh tịnh.

– Và từ một vọng tưởng nhiều trong quá trình kiên nhẫn tu tập của chúng ta từng ngày chúng ta trở nên vọng tưởng ít. Vọng tưởng nhiều lâu ngày vọng tưởng ít, lần lần mới chúng ta mới thâm nhập được niệm Phật được nhất tâm.

Cho nên đừng bao giờ chúng ta nghĩ một cách lệch lạc như vậy rồi chúng ta khuyên khích người tu người ta không dám. Bởi vì ai niệm Phật cũng vọng tưởng hết.

Điều 3: Người tạo nhiều tội quá khi niệm Phật có được vãng sanh không?

Chúng ta nên nhớ rằng tổ Huệ Năng là người giác ngộ tu thiền. Mà tổ đã nói trong Phát Ngũ Đạt kinh “Niệm trước mê là chúng sinh, niệm sau giác ngộ là Phật”. Và các tổ của chúng ta thường nói Tứ là hồi đầu thị ngạn – quay đầu là bờ. Hay là trước kia các vị thiền sư nói là: Buông đồ đao lập địa thành Phật.

Vì thế, cho dù chúng ta mắc các tội như lỡ phạm những điều tội ác trên cuộc đời như sát sanh, trộn cắp, tà dâm, hại vật, v.v… mà chúng ta chưa biết về nhân quả thì khi bây giờ chúng ta nhận thức được chúng ta cải hóa tu hành. Chúng ta có khả năng vãng sanh là điều tất yếu. Chỉ trừ phạm tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, giết hòa thượng, giết A sờ lê và làm thân Phật ra máu thì khó mà vãng sanh.

Chúng ta phải biết rằng: tu tịnh độ là tu theo nhân quả, về tịnh độ chưa phải là thành Phật. Cho nên con người nguyện về đó là hoàn toàn có khả năng để vãng sanh về đó là chuyện tất yếu. Khi vãng sanh còn mang nghiệp là chuyện bình thường.

Cho nên nếu chúng ta đã lỡ tạo tội và khi chưa biết mình sai lầm khi chưa nhận thức được lời Phật dạy, khi chưa nhận biết được tội lỗi nhân quả phước báu thì các vị khi tu tập và hồi đầu trở lại sám hối ăn năn và thực tập vẫn đạt kết quả như thường. Đừng nên mặc cảm tội lỗi quá khứ của mình rồi để bận trong việc tu hành, để bận tâm. Hình ảnh cho chúng noi theo đó là 18 tướng vị A La Hán trên chùa Thờ từ 18 vị ăn cướp mà thành.

Điều 4: Chỉ niệm Phật mới vãng sanh được hay sao?

Căn bản nhất niệm Phật Di Đà cầu vãng sanh là phải đủ 3 điều kiện căn bản gồm: Tín, Hạnh, Nguyện. Chẳng hạn như Vĩnh Minh Viên Thọ thiền sư hay Thiên Như thiền sư cả đời tu về thiền giác ngộ rồi mới chuyển sang tịnh. Điều đó cho thấy rằng: Tất cả mọi hành động, việc làm của chúng ta dầu không phải niệm Phật nhưng chúng ta đem tâm hồi hướng: Con nguyện đem công đức này trang nghiêm cảnh tịnh độ Tây phương. Tất cả cái đó đều chuyển thành nhân tịnh độ cả.

Khi xưa có một người hỏi Thiện Đạo đại sư – Đệ nhị tổ của tông Tịnh độ rằng: Niệm Phật có chắc được vãng sanh không? Thì Ngài đã nói là nếu ông niệm thành tâm và chuyên nhất thì chắc chắn ông sẽ được vãng sanh.

Và lúc đó Ngài chấp tay niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì một hào quang sáng trong miệng ông phát ra, niệm 10 tiếng thì 10 hào quang phát ra.

Nhưng mà đó là chuyện của các Tổ thời xưa, con thời nay thì sao?

Thời nay, chúng ta nhìn lại thượng tọa Thích Chân Thành, một vị giảng sư và tu theo Tịnh Độ Tông. Khi Ngài mất và hỏa táng có để lại một chiếc lưỡi và bảy viên xá lợi. Đó là minh chứng của công năng niệm Phật rốt ráo của một bậc chân tu để làm gương cho đời.

Còn với người tại gia, hình ảnh vãng sanh của mẹ hòa thượng Thích Thiện Hoa là một minh chứng. Khi bà sắp lâm chung, rất mệt và được chư tăng, con cháu trợ niệm, một lúc sau ba cười. Cháu bà hỏi rằng: Sao bà cười? Bà nói rằng: Bà thấy Phật Di Đà đến rước mình bà. Nói thế rồi bà bắt đầu vài lần mỉm cười như thế rồi tắt thở. Điều này đã được các vị tôn túc tu ở tổ đình Phước Hậu chứng minh và trong sách viết lại của hòa thượng Thích Thanh Từ cũng kể lại cho các Phật tử nghe.

Điều 5: Phải “Liệu cơm gấp mắm”

Sự nhiệm màu của pháp môn Niệm Phật là có thật, nhưng phải trải qua một thời gian dài và kiên trì. Tùy theo điều kiện sức khỏe, hoàn cảnh cũng như căn cơ mà chúng ta có cách tu tập khác nhau, nhưng phải luôn tinh tấn. Không nên vì muốn nhanh chóng đạt được thành tựu mà tu vội tu vàng, tu không đúng phương pháp sẽ khiến việc tu hành trở nên mệt mỏi và gánh nặng. Hoặc nếu chúng ta không có căn cơ để tu Tịnh thì vẫn tu Thiền, phương pháp nào cũng Phật dạy, cũng màu nhiệm cả.

Như hòa thượng Thiền Tâm đã dạy trong kinh niệm Phật thập yếu: Thuốc không nam bắc, hết bệnh là thuốc hay. Pháp không thấp cao, hà cơ là pháp diệu. Bởi vì giữa một người sức lực không giống nhau, căn cơ trình độ không giống nhau nên chúng ta phải nắm rõ chỗ này.

Tóm lại, phương pháp niệm Phật là có căn cứ rõ ràng và thành tựu đã được minh chứng bởi các vị tổ sư, những bậc chân tu và ngay cả cư sĩ. Chúng ta không còn nghi ngờ gì phương pháp này cả, những cần phải hiểu rốt ráo về pháp môn Tịnh Độ để tránh vướng phải hững trở ngại khi thực hành bằng những quan điểm tiêu cực đã được nêu ở trên.

4. Niệm Phật vào lúc nào? Thời gian bao lâu?

Niệm Phật không kể thời gian, không kể lúc. Đi, đứng, nằm, ngồi, thái rau, bửa củi… đều niệm Phật được. Vừa làm vừa niệm. Đang nhổ cỏ lúa mà biết niệm Phật thì nhổ mấy mẫu ruộng cũng không biết mệt. Người niệm Phật phải nhớ câu “Tịnh niệm tương kế”, nghĩa là thời thời khắc khắc phải bám lấy câu “A-di-đà Phật”.

Lỡ quên niệm, khi vừa trực nhớ phải niệm liền. Ráng giữ tính liên tục của nó để trở thành một thứ nhu cầu sống như phải thở không thở không được vậy. Niệm Phật cho đến nhập tâm luôn thì tự nhiên lúc nào trong tâm mình cũng niệm Phật được. Có thế khi lâm chung mình sẽ niệm Phật được dễ dàng. Nghĩa là, chắc chắn mình được vãng sanh. Đại sư Ấn-Quang, vị Tổ thứ 13 của Tông Tịnh-Độ cho phép niệm Phật ngay trong lúc đi cầu nữa là khác, nhưng phải niệm thầm.

Nếu có dịp thuận tiện, trong gia đình cũng nên tổ chức giờ niệm Phật được thì rất tốt. Nên niệm lúc sáng sớm và tối là thời điểm thích hợp, vừa không mất việc làm ăn, vừa dễ nhóm họp. Buổi sáng sau khi niệm Phật nên phát nguyện vãng sanh, có thể đọc bài phát nguyện này:

Nguyện sanh Cực-lạc cảnh Tây-phương

Chín Phẩm Hoa Sen là cha mẹ.

Hoa nở thấy Phật chứng Vô-Sanh

Bồ-tát Bất thối là bạn lữ.

Hoặc đơn giản cứ nguyện như vầy:

“Nam-mô A-di-đà Phật, con xin nguyện cầu hết báo thân này được sanh về Tây-phương Cực-lạc. Ngưỡng nguyện A-di-đà Phật đại từ đại bi phóng quang tiếp độ”.

Hoặc nguyện đại ý như vậy. Nên chép câu nguyện thành bài để nguyện thuộc lòng. Khóa tụng chiều thì hồi hướng công đức:

Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm Phật Tịnh-Độ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam đồ.

Nếu có kẻ thấy nghe

Đều phát lòng Bồ-đề

Hết một báo thân này

Đồng sanh nước Cực-lạc.

Thành tâm thì có cảm ứng.

Điều kiện vãng sanh

Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật dạy: “Này Diệu Nguyệt cư sĩ, thế nào là niệm Phật chân chính? Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sanh, thì người niệm Phật phải phát khởi Mười Thứ Tâm Thù Thắng sau đây: thứ nhất là Tín Tâm, thứ hai là Thâm Trọng Tâm, thứ ba là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm, thứ tư là Xả Ly Tâm, thứ năm là An Ổn Tâm, thứ sáu là Đà La Ni Tâm, thứ bảy là Hộ Giới Tâm, thứ tám là Ba La Mật Tâm, thứ chín là Bình Đẳng Tâm, thứ mười là Phổ Hiền Tâm.”

Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.

Những gì là ba tâm?

Một là Chí Thành Tâm.Hai là Thâm Tâm.Ba là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm.Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.

Những gì là ba hạng?

Một là từ tâm bất sát, đủ các giới hạnh.

Hai là đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa.

Ba là tu hành Lục Niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh Cực Lạc. Người muốn sanh nước Cực Lạc nên tu ba phước:

Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bậc Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.

Hai là thọ trì Tam Quy Y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.

Ba là phát tâm Bồ Ðề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.”

Kinh A Di Đà Đức Phật dạy: “Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.”

Trích nguồn: Phatgiao.org.vn!

BÀI VIẾT HAY ĐỪNG BỎ LỠ

Top Car News Car News